Bài này viết về hoàng hậu nhà Tống. Đối với hoàng hậu khác cùng tôn hiệu, xem

Niên hiệu Tiên Thiên: Ổn định nội bộ

Tháng 8 năm 712, trên bầu trời xuất hiện dị tượng, sao Tuệ Tinh ra hướng tây, kinh Hiên viên nhập vào Thái vi là điềm sắp thay đổi triều đại. Công chúa Thái Bình do muốn hại Long Cơ, bèn sai bọn thuật giả báo việc này và nói thái tử sẽ lên ngôi hoàng đế, mục đích để cho Duệ Tông giết chết Long Cơ trừ hậu hoạn. Nhưng Duệ Tông cho rằng nên nhân cơ hội này, truyền ngôi cho Long Cơ một cách có trật tự cũng có thể trừ được nạn. Công chúa Thái Bình cực lực phản đối, Long Cơ cũng xin không nhận ngôi vua, nhưng Duệ Tông vẫn khăng khăng muốn nhường ngôi, nên cuối cùng ông đã chấp thuận, tức vị hoàng đế vào ngày Canh Tí (8 tháng 9) năm 712, Lý Long Cơ tức vị, tức Đường Huyền Tông, đổi niên hiệu là Tiên Thiên, tôn Duệ Tông làm Thái Thượng hoàng[25]. Thái Bình muốn kiềm chế Long Cơ, bèn xin Thượng hoàng Duệ Tông tiếp tục nắm quyền lực, cứ năm ngày ra triều một lần[24].

Khoảng đầu năm 713, Thượng hoàng lệnh cho Đường Minh Hoàng đến tuần tra biên giới phía bắc, tuyển sĩ tốt ở các quận gia nhập quân đội. Tuy nhiên sau đó bọn sĩ tốt mới nhập ngũ bị giải tán, Minh Hoàng cũng không đến phía bắc nữa[24].

Cuối Khai Nguyên và Thiên Bảo: mầm mống loạn lạc

Từ cuối đời Khai Nguyên, Minh Hoàng lao vào ăn chơi xa xỉ, lại sủng ái Quý phi Dương Thái Chân mà bỏ bê chánh sự, mầm mống của sự diệt vong dần xuất hiện. Để có chi phí cho chiến tranh, nhà Đường lại tăng mức sưu thuế mà nhân dân phải đóng góp, lại thêm nạn tham quan, nên đời sống nhân dân khổ cực hơn. Chính trị xuống dốc, gian thần Lý Lâm Phủ được trọng dụng, ngăn chặn đường tiến thân của kẻ sĩ, ý đồ độc chiếm triều đình. Bên ngoài, chính sách trong nặng ngoài nhẹ của Lý Lâm Phủ góp phần giúp cho thế lực ngoại tộc phát triển, An Lộc Sơn (người Đột Quyết) có thế lực ở Đông Bắc, phát triển thế lực, đến năm 755 phản Đường, gây ra Loạn An Sử. Nhà Đường do đó mà suýt nữa bị diệt vong.

Tiêu diệt công chúa Thái Bình và bè đảng

Tuy nhiên mâu thuẫn giữa ông với Công chúa Thái Bình vẫn tiếp diễn. Thái Bình công chúa ỷ việc Thượng hoàng Duệ Tông còn nắm quyền, ra sức nhờ vào đó tác oai trong triều và thường xảy ra hiềm khích với vua Minh Hoàng. Một nửa đại thần trong triều đều là vây cánh của bà ta. Lưu U Cầu cùng một đại thần khác là Trương Vĩ, với sự chấp thuận của Minh Hoàng, lên kế hoạch triệu tập các đạo quân trong nước về kinh cứu giá, diệt trừ bọn Đậu Hoài Trinh, Sầm Hi thuộc phe đảng của Thái Bình. Tuy nhiên sau đó Trương Vĩ lại đem việc này tiết lộ với Đặng Quang Tán, và Quang Tán lại lỡ miệng tiết lộ việc này ra. Kết cục là Lưu U Cầu bị bắt giam và kết án tử hình. Minh Hoàng ra mặt xin cho U Cầu, cuối cùng Thượng hoàng Duệ Tông quyết định lưu đày Lưu U Cầu, Trương Vĩ và Đặng Quang Tán.

Những hành động lôi kéo bè đảng của Công chúa Thái Bình đã chứng tỏ bà ta đang chuẩn bị cho một cuộc đảo chính nữa[26]. Còn Đường Minh Hoàng Lý Long Cơ đang đứng trước hai sự lựa chọn: một là đứng yên chờ đến khi Công chúa ra tay với mình và đối phó một cách thụ động, hai là ra tay trước, trừ khử người cô ruột để thực sự trở thành "hoàng đế" và thực hiện những hoài bão chánh trị của mình. Tuy nhiên Thái Bình là người em gái ruột duy nhất của phụ thân ông, nếu như ông hành động lỗ mãng thì sẽ mang tai tiếng bất hiếu[26]. Nhà vua suy nghĩ rất nhiều về việc này. Khi đó có viên quan tên là Vương Cư khuyên ông rằng tai họa sắp đến, không thể chần chừ[27]:

Mùa hạ năm 713, có tin đồn rằng công chúa Thái Bình, Đậu Hoài Trinh, Sầm Hi, Tiêu Chí Trung, Trừng Lan cùng bọn văn thần Tiết Tắc, Lý Tấn (hậu duệ Lý Đức Lương, em trong họ của Đường Cao Tổ Lý Uyên), Lý Du, Cổ Ưng Phúc, Đường Tẩn, võ tướng Thường Nguyên Giai, Lý Từ, Lý Khâm và nhà sư Huifan, đang âm mưu lật đổ Minh Hoàng. Người ta còn cho rằng họ đã mưu tính với thị tì của Minh Hoàng là Nguyên thị để hạ chất độc Gastrodia elata (một loại chất kích dục) vào trong đồ ngự dùng của Minh Hoàng. Khi âm mưu này được Ngụy Tri Cổ tấu lên Minh Hoàng, Minh Hoàng theo lời khuyên của Vương Cư, Trương Thuyết và Thôi Nhật Dụng, quyết định hành động trước. Ông triệu các huynh đệ là Kỳ vương Lý Phạm và Tiết vương Lý Nghiệp[Ghi chú 6], Quách Nguyên Chấn, Vương Mao Trọng, Khương Kiểu, Lý Lệnh Vấn, Vương Thủ Nhất (hoàng tỉ phu), thái giám Cao Lực Sĩ, hoạn quan Dương Tư Húc, tướng quân Lý Thủ Đức, bàn kế sách hành động. Ngày 29 tháng 7[28], hoàng đế giao cho Vương Mao Trọng 300 quân từ điện Võ Đức tiến vào cửa Kiềm Hóa, giết Triệu Nguyên Giai và Lý Từ, bắt giam Giả Ưng Phúc, Tiêu Chí Trung, Sầm Hi, Lý Du rồi chém ở giữa triều. Đậu Hoài Trinh bỏ trốn sau đó treo cổ tự tử. Minh Hoàng sai đổi họ của Hoài Trinh thành Độc và giết chết bè đảng của Hoài Trinh. Ông ra lệnh xá thiên hạ, trừ những đồng mưu của công chúa. Tiết Tắc bị bức tử trong ngục.

Thượng hoàng Duệ Tông nghe tin biến động, lên cửa Thừa Thiên để quan sát điều gì đang xảy ra. Quách Nguyên Chấn tâu với Thượng hoàng về hành động của Minh Hoàng, và Thượng hoàng bắt buộc phải ra chiếu lệnh kể tội những người kể trên, hợp pháp hóa cuộc chánh biến. Ngày 30 tháng 7, Thượng hoàng ra lệnh giao lại quyền hành trong triều cho Minh Hoàng, chuyển sang sống ở điện Bách Phúc cho đến khi qua đời ngày 13 tháng 7 năm 716[24][29]. Từ đó ông hoàn toàn nắm giữ quyền lực trong triều. Công chúa Thái Bình trốn vào một ngôi chùa, sau bị phát hiện và bị Minh Hoàng ban cho được tự sát. Tuy nhiên, ông tha cho con trai công chúa là Tiết Sùng Giản, nhưng buộc đổi sang họ Lý. Toàn bộ tài sản của công chúa bị tịch thu[29].

Lực Sĩ cởi giày, Quý phi mài mực

Bấy giờ Đường Minh Hoàng nghe danh tiếng của Lý Bạch, nên hạ lệnh triệu tập ông ta đến Trường An phục vụ cho triều đình. Ở đây, nhiều đạo sĩ và văn nhân mến tài của Lý Bạch, trong đó có Hạ Tri Chương, người đã đặt cho ông biệt danh Trích Tiên giáng trần[146]. Đường Minh Hoàng nhiều lần thử tài Lý Bạch, cuối cùng cũng phải công nhận tài năng của ông ta, và tổ chức một bữa tiệc lớn để thết đãi, đích thân chuẩn bị món canh cho ông[146][147], và ban cho chức Học sĩ viện Hàn lâm. Vì Lý Bạch biết tiếng Phiên, nên Minh Hoàng đã nhờ ông viết giùm bức thư trả lời công văn của vua Thổ Phiên gửi sang. Lý Bạch mặt đỏ, liểng xiểng đi đến Cao Lực Sĩ, đưa chân cho y tháo giày, rồi ngoắc Dương Quốc Trung (có thuyết cho là Dương Quý phi) lại mài mực ông mới chịu viết. Hai người này đành phải làm theo[148].

Nhà vua dẫn Dương Quý phi ra ngắm hoa, sai nhạc đội ca hát, lại vời Lý Bạch đang say rượu vào viết lời nhạc chúc tụng cho Quý phi. Lý Bạch đang say viết liền 3 bài Thanh Bình điệu. Vua và Quý Phi rất thích. Dương Quốc Trung và Cao Lực Sĩ căm giận bị Lý Bạch làm nhục, bèn lấy một đoạn trong bài, nói rằng Lý Bạch có ý so Quý phi với Triệu Phi Yến đời nhà Hán[149]. Nhà vua vì nể sợ Quý phi, đành phải đem vàng lụa ra tặng rồi đuổi khéo Lý Bạch về vườn[150].

Có truyền thuyết cho rằng sau khi dẹp xong An Lộc Sơn, Đường Minh Hoàng nhớ thương Dương Quý Phi không nguôi. Đêm rằm tháng tám, gió mát, trăng tròn thật đẹp, một vị tiên xuất hiện tình nguyện đưa vua đi gặp Quý Phi. Vị tiên hóa phép tạo một chiếc cầu vồng, một đầu giáp cung trăng, một đầu chấm mặt đất, nhà vua trèo lên cầu vồng đi lên cung Quảng, nhìn thấy Quý Phi xưa trong đoàn vũ. Trở về trần thế, vua luyến tiếc cảnh cung trăng đầy thơ mộng, đặt ra tết Trung Thu. Trong ngày tết này, lúc đầu chỉ uống rượu thưởng trăng nên còn gọi là Tết Ngắm Trăng[151][152].

, mẫu thư pháp duy nhất còn sót lại của Đường Minh Hoàng

Là một Hoàng đế đa tài về nghệ thuật, Đường Minh Hoàng đã để lại rất nhiều thành tựu về thư pháp và thơ ca. Đặc biệt, ông có một bài thơ nằm trong danh sách Đường thi tam bách thủ do học giả Tôn Thù (1722 - 1778) đời nhà Thanh sưu tập[153]. Bài thơ viết theo phong cách luật thi, thể loại hoài cổ, có tựa đề là "Kinh Lỗ, tế Khổng Tử nhi thán chi", đề cập đến Khổng Tử và Lỗ quốc thời Xuân Thu, bày tỏ sự tiếc nuối và hoài tưởng về quá khứ, và nói lên cái nhìn về sự sống và cái chết của tác giả.

Đường Minh Hoàng còn được biết đến là một người có tài năng thiên bẩm về âm nhạc[156], có ảnh hưởng nhất định đối với sự phát triển của âm nhạc dưới triều nhà Đường. Ông có thể tự diễn tấu các loại nhạc cụ như tì bà[157], yết cổ[158], có sở trường viết các ca khúc dài, nổi bật có "Nghê thường hữu y khúc", "Tiểu phá trận nhạc", "Xuân quang hảo", "Thu phong cao"... tổng cộng được hơn 100 nhạc khúc. Minh Hoàng mỗi khi rảnh rang việc nước thường ra vườn lê, dạy ca vũ, diễn xuất, đàn hát, thổi sáo... cho con em nhạc công. Kể từ đó người ta hay gọi đoàn hí kịch là lê viên, gọi diễn viên là "Lê viên đệ tử" (con em vườn lê); những gia đình đời đời theo đuổi nghệ thuật hí khúc là "Lê viên thế gia"; gọi giới hí khúc là "Lê viên giới"...[159]

Sơ đồ phả hệ tổ tiên Đường Minh Hoàng

Đường Minh Hoàng và Dương Quý phi đứng trên sân thượng ngắm cảnh, tranh của họa sĩ

Đường Huyền Tông Minh hoàng đế có rất nhiều Hoàng tử và Hoàng nữ, tổng cộng 52 người con, trong đó có 23 Hoàng tử[33] và 29 Hoàng nữ[213], chưa loại trừ đi số người chết yểu khi còn nhỏ. Danh sách được liệt kê dựa theo Đường thư, quyển 107 và Tân Đường thư, quyển 83:

Mối tình của Đường Minh Hoàng và Dương quý phi là cảm hứng cho rất nhiều tác phẩm thơ, văn, tiểu thuyết bất hủ của nền văn học Trung Hoa, như Trường hận ca của Bạch Cư Dị (thời Vãn Đường)[225], Trường hận ca truyện của Hòa Trần Hồng[226], Con đường lập thân xấu xa ở chốn quan trường (thời Nam Tống), Mai cơ (thời nhà Kim, Đường Minh Hoàng khóc túi hương, Đường Minh Hoàng dạo chơi cung trăng, La Quang Viễn mộng đoạn Dương quý phi, Ngô đồng vũ (thời nhà Nguyên), Thái Hàn cao, Kinh Hồng kí (thời nhà Minh), Tùy Đường diễn nghĩa của Chử Nhân Hoạch[228]:107, Trường sinh điện của Hồng Thăng (đời nhà Thanh). Trong đó, Trường hận ca được coi là một tuyệt tác về mối hận tình muôn thuở, dưới đây là một đoạn trích dẫn theo bản dịch của Tản Đà:[230]

Tác gia Lý Thương Ẩn thời Vãn Đường (813 - 858) có bài thơ "Long trì" những bài thơ châm biếm hành vi loạn luân cướp vợ của con của Đường Minh Hoàng (bản dịch của Bích Hải)

Ngoài ra Thương Ẩn còn có bài "Mã Ngôi" với ý trách một đại thiên tử như Đường Minh Hoàng đến cả một mĩ nhân bên cạnh cũng không thể bảo vệ (bản dịch của Trần Trọng San)[231]

Tương truyền Dương quý phi rất thích ăn lệ chi (vải), nên cứ đến mùa Minh Hoàng lại người dân đất Huệ Châu[Ghi chú 50] - một nơi nổi tiếng về vải ngon, phải vận chuyển vải vào kinh để vừa lòng quý phi, khiến nhiều người phải chết vì sơn lam chướng khí. Tác gia Tô Đông Pha thời Tống có bài "Lệ chi thán" trách Minh Hoàng về việc này (bản dịch của Hoàng Tạo)[232]